Hai câu hỏi “Làng gốm cổ Kim Lan ở đâu ? Sản xuất những loại sản phẩm nào?” luôn được đặt ra trong suy nghĩ khi bạn muốn đến với làng nghề cổ hàng nghìn năm. Vậy đến với bài viết lần này, mình sẽ cung cấp những thông tin chi tiết nhất nhằm đem lại những điều hữu ích cho người độc. Hãy cùng theo dõi những dòng chữ dưới đây để giải đáp câu hỏi “Làng gốm cổ Kim Lan ở đâu ? Sản xuất những loại sản phẩm nào?”.
Làng gốm cổ Kim Lan ở đâu ?
Xã Kim Lan hay còn được biết đến là làng gốm cổ Kim Lan là một vùng quê thuộc ngoại ô, không tấp nập xô bồ mà mang vẻ đẹp yên bình.Kim Lan ngày nay có diện tích 2,92km2 Kim Lan thuộc huyện Gia Lâm, nằm ở phía Đông của trung tâm Hà Nội, cách khoảng 15km so với hồ Hoàn Kiếm. Làng gốm được ngăn cách bởi con kênh Bắc Hưng Hải với 4 phía tiếp giáp với nhiều xã, huyện:
Phía Nam tiếp giáp với bến đò Văn Đức ( xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội)
Phía Bắc bề ngang, phía đông là xã Xuân Quan ( huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên)
Phía Tây là bờ sông Hồng bên kia là phường Lĩnh Nam (Hoàng Mai, Hà Nội)
Theo lưu truyền dân gian trong vùng, người Việt cổ đã tụ cư ở Kim Lan từ xa xưa. Thời Hùng Vương thứ 18, công chúa Tiên Dung có lần từ kinh đô theo sông Hồng qua địa phận làng Kim Lan, thấy nơi đây sơn thuỷ hữu tình cảnh đẹp khác thường, đã dừng lại nghỉ ngơi trước khi về làng Chử Xá gặp Chử Đồng Tử. Năm 40 sau công nguyên, khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, một cánh quân của Hai Bà Trưng từ Luy Lâu qua các làng : Giống Bạc đến làng Phụng Công (nay đều thuộc huyện Văn Giang, Hưng Yên) Kim Lan rồi vượt sông Hồng sang Long Biên tiếp tục truy quét quân thù.
Truyền thuyết về việc người Việt cổ cư trú từ rất sớm tại dải đất ven sông Hổng được minh chứng thêm bằng nhiều tư liệu khảo cổ học. Dọc theo bờ sông Hồng của địa phận Kim Lan, từ Hàm Rồng đến Cạnh Triển, dân làng đã tìm thấy nhiều hiện vật gốm cổ. Đầu năm 2001, Viện khảo cổ học Việt Nam đã khai quật khu đi chỉ gốm sứ Kim Lan. Với những di vật phong phú thu được trong đợi khai quật, các nhà khoa học cho rằng, Kim Lan là một làng cổ có từ 1000 đến 2000 năm tuổi.
Dưới thời Bắc thuộc, Kim Lan liên tục có các lớp cư dân sinh sống. Theo thần phả do Hàn Lâm viện, Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn hiện còn lưu lại tại đình làng thì vào các đời vua Lý Tông nhà Đường, niên hiệu Hàm Thông thứ 6 ( năm 866), Cao Biền là Đo Hộ tướng quân được cử sang cai trị Việt Nam. Là một đạo sĩ thạo thiên văn địa lý, chuyên yểm bùa để mê hoặc lòng người, Cao Biền thường đi các nơi ngắm cảnh núi sông.
Một lần qua đạo Kinh Bắc, phủ Thuận An, đến địa phận xã Kim Lan thấy địa mạch nơi đây sơn thuỷ hữu tình, hình thế như ngọc kỷ, nhà nhà phú túc, bèn lưu lại, Cao Biển đã sai Trạc Lính và Chử Việt lập doanh trại " khuyến dạy nghề nông tang, hưng sự tiện, trừ sự hại, hun đúc phong tục" sau Cao Biền về đất Bắc, dân làng Kim Lan tạc tượng và lập miếu thờ ( Cao Biền ở Miếu cả, Trạc Kinh ở miếu Thượng, Chử Việt ở Miếu Triền).
Làng Kim Lan từ xưa có tục cấm trẻ em thả diều như là một minh chứng cho sự kiện này và cho sự trùng hợp giữa cốt lõi lịch sử và phong tục tín ngưỡng Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần các vị khai sáng hộ quốc cứu dân, đều được phong là " Huyết thực phúc thần". Nhiều lọ đựng tiền chinh có niên hiệu Khai Nguyên (712), Thái Bình ( 970), Thiên Phúc (984) cùng nhiều đồ gốm có niên đại từ thế kỷ VII - X đến thế kỷ XV -XVIII khẳng định tính liên tục đó của làng.
Làng Kim Lan, tục gọi làng Sươn, nằm ở bờ Bắc sông Nhị Hà, trước năm 1945 thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Tên gọi Kim Lan chưa biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng trong bản thần tích vị thần làng do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm 1472 có ghi: “Xã Kim Lan, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc”.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, theo Đinh Xuân Vịnh, tác giả sách So tay địa danh Việt Nam, dưới triều Nguyễn, do kiêng huý tên gọi chúa Nguyễn Phúc Lan, Kim Lan mới đổi gọi Kim Quan. Qua các dấu tích còn lại, có thể đoán định, tên xã Kim Lan đổi gọi Kim Quan diễn ra khoảng trước năm 1870, vì theo các chữ Hán ghi trên quả chuông tại ngôi chùa làng đúc năm 1797 ghi: “Kinh Bắc xứ, Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Kim Lan xã” và chiếc khánh đồng của chùa đúc năm Tân Dậu 1861, cũng ghi tên xã là Kim Lan, đến năm Canh Ngọ niên hiệu Tự Đức 24 (1871) ghi là Kim Quan.
Sách Tên làng tên xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX cho biết, vào thời cuối triều Lê đầu triều Nguyễn, Kim Lan
là một xã độc lập thuộc tổng Đông Dư, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mệnh thứ 3-1822, trấn Kinh Bắc đổi thành trấn Bắc Ninh, năm Minh Mệnh 12-1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh).
Năm 1912, huyện Gia Lâm từ phủ Thuận Thành (Thuận An) cũ được cắt về phủ Từ Sơn).
Năm 1948, sáp nhập 3 xã Kim Quan, Bát Tràng, Giang Cao thành một xã lấy tên là xã Quang Minh, thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Đến tháng 2-1949, huyện Gia Lâm cắt về tỉnh Hưng Yên; tháng 11-1949 lại cắt trả về Bắc Ninh.
Năm 1958, sau khi đào sông Bắc Hưng Hải, thôn Kim Quan nằm ở phía Nam, còn hai làng Bát Tràng và Giang Cao nằm ở phía Bắc của sông. Để tiện sinh hoạt, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 301-NĐ-CQTT, tách thôn Kim Lan từ xã Quang Minh để thành lập xã riêng.
Lúc này, do không còn lệ kiêng huý, Kim Lan lại trở về với tên gọi có từ xa xưa là xã Kim Lan, thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Ngày 20-4-1961, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa II kỳ họp thứ 2 phê chuẩn Nghị quyết của Chính phủ về việc mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội lần thứ nhất, xã Kim Lan cùng 14 xã của huyện Gia Lâm được nhập về Hà Nội.
Xã Kim Lan ngày nay có diện tích 2,92 km, chạy từ phía Bắc giáp sông Bắc Hưng Hải đến phía Nam là bến đò Văn Đức dài khoảng 1596m; bề ngang tại điểm phía Bắc từ đê Xuân Quan ra đến bờ sông Hồng là 348m; bề ngang phía cuối làng giáp đường 179 từ Bờ Đó ra đến sông Hồng là 684m. Phía Đông giáp xã Xuân Quan (huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên); phía Tây là sông Hồng; bên kia sông là thôn Thuý Lĩnh, trước đây thuộc xã Lĩnh Nam, huyện Thanh Trì; từ 1-1-2004 thuộc phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai.
Kim Lan nằm giữa một vùng đất cổ. Sách Đại Nam nhất thống chí, mục Tỉnh Bắc Ninh chép, ở xã Xuân Lũng (sau đổi Xuân Lan), huyện Gia Lâm có miếu Triệu Vũ Đế. Vũ Đế tên huý là Đà, người huyện Chân Định (ở Trung Quốc). Đời Tần, Triệu Đà làm lệnh ở Long Châu, sau làm Úy ở Nam Hải; nhà Hán phong làm Nam Việt Vương, sau tự xưng hoàng đế. Khi đi tuần du đến đây, đỗ thuyền ở bến phía Đông Nam, bỗng có rồng vàng xuất hiện, nhân đấy dựng hành cung gọi là điện Long Hưng. Sau khi mất, dân địa phương dựng đền thờ. Hiện nay, trước đình Xuân Quan có treo bức hoành phi khắc ba chữ này. Phía Nam Kim Lan, qua làng Trung Quan là làng Chử Xá, tên Nôm là Kẻ Sứa. Hơn 20 thế kỷ trước, tại bến Chử Xá đã diễn ra chuyện tình Chử Đồng Tử và Tiên Dung vào cuối đời Hùng Vương. Ghi lại tích xưa, hiện Chử Xá còn lăng mộ Chử Cù Vân, thân sinh Chử Đồng Tử.
Trong lịch sử hình thành vùng đất hai bờ sông Hồng, người ta thấy có 5 làng Lan cả thảy. Đó là làng Tiểu Lan Châu, Đại Lan Châu, Trung Quan Châu, Xuân Lan và Kim Lan. Ba làng Lan có chữ “châu được hình thành do sự bồi trúc của phù sa sông Hồng Hà. Mỗi khi sông thay đổi dòng chảy, đất các làng này bị lở, nên dân phải di sang sống tại bãi bồi đối diện ở bờ bên kia.
Xem bản đồ thời Hồng Đức (1470-1497), từ làng Kim Lan xuôi về phía hạ lưu, người ta thấy có một bãi bồi khá lớn. Tại đó có hai làng Tiểu Lan Châu và Đại Lan Châu, liền phía dưới là Cao Biền Nhuệ. Vào cuối đời Lê, sau mấy cuộc đổi dời, làng Tiểu Lan Châu, do lở chạy vào sát đê hữu ngạn sông Nhị nên dần ổn định và định cư lâu dài ở bờ Nam. Cũng vào thời gian này, Tiểu Lan Châu đổi gọi Yên Mỹ Châu, còn làng Đại Lan Châu, vào đời Lê mạt (1782), đất bờ Nam bị lở phải di sang bờ Bắc, nhập vào cộng đồng 4 làng Lan còn lại. Bản đồ làng Đại Quan Châu vẽ năm 1861 cho thấy hai làng Trung Quan Châu và Đại Quan Châu nằm song song. Làng Đại Quan Châu nằm ở phía ngoài, giáp sông. Tại phía Bắc là đất của làng Kim Quan (ở phía ngoài bến đò Văn Đức bây giờ).
Năm 1874, đất Đại Quan Châu lại bị lở, dân làng lại phải di sang bờ Nam, nhưng hằng ngày người dân vẫn đi thuyền sang bờ Bắc làm ruộng. Từ năm 1955, do đi lại phiền phức, người Đại Lan mới không đi sang bờ Bắc làm ruộng nữa. Còn làng Trung Quan, phả họ Ngô ở làng Đại Lan có ghi, làng Trung Lan vốn tách từ làng Đại Lan ra. Các chữ Hán ghi trên một sản phẩm gốm hiện lưu tại Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam, có ghi tên địa danh Trung Lan.
Cuối thế kỷ XIX, vì kiêng huý thủy tổ nhà Nguyễn mới đổi Lan thành Quan, và từ đó đến nay vẫn giữ tên gọi này. Hiện nay, Trung Quan là một thôn của xã Văn Đức, 09 huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Người xưa, khi sắp xếp đơn vị hành chính, thường dựa vào đặc điểm một vùng đất mà đặt tên gọi cho làng. Làng có chữ châu là nằm ở ven sông. Dưới triều Nguyễn, trên xã có thêm đơn vị tổng, rồi mới đến huyện, phủ, tỉnh. Liền kề với Kim Lan là tổng Đại Quan Châu, bấy giờ thuộc huyện Văn Giang, gồm các xã Đại Quan Châu, Chử Xá Châu, Trung Quan Châu và Sơn Hồ Châu; còn làng Kim Quan, thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm.
Đọc đến đây, chắc có bạn sẽ đặt câu hỏi, vì sao làng Kim Lan xưa và nay đều nằm sát bờ sông, được hưởng su bồi trúc của dòng sông Cái mà không có chữ châu ở cuối, và lại gắn với các làng cổ ở phía trong đê là vì sao?
Theo khảo cứu của nhà khảo học Nhật Bản Nishimura Masanari và truyền thuyết ở địa phương thì con đê sông Hồng ở bờ Bắc trước đây nằm ở phía ngoài làng Kim Lan. Nhưng sau đó, do sông thay đổi dòng chảy, vào thế kỷ XVIII, đất bị lở, đê phải đắp vào vị trí hiện nay. Năm 2003, nhân một lần nước cạn, Nishimura Masanari phát hiện ở phía trên bến đò Kim Lan hiện nay độ 100m có nhiều cây gỗ còn cả vỏ, thân đục các lỗ để lắp xà ngang, chân đóng chéo ra phía sông, bên trên có xà chống chéo vào bờ sông chịu lực.
Phía trong các cây gỗ được rải một lớp phên nửa và chèn đất sét xanh (người địa phương còn gọi là đất thó) để chống xói lở. Đất sét dày thành lớp, trước đây người Kim Lan còn lấy đất sét ở đây về làm vỏ lò. Qua khảo sát, người ta đoán rằng, đây có thể là một thứ kè để chống xói lở cho đê. Tại Nhật Bản thời trước cũng làm như vậy. Một cụ kê lại, bấy giờ có quan huyện đi cắm mốc đắp đoạn đê mới vào khu vực xóm Đường Cái bây giờ. Theo hướng đi của con đê mới thì đất ruộng và một phần nhà dân của Kim Lan sẽ bị mất. Để tránh “họa” này, cụ tổng Ba Phướn, lúc đó đương làm Chánh tổng Đông Dư, là người có quyền lực, tìm cách làm thân với quan. Lần đó, quan cùng các tùy thuộc đi cắm mốc đến làng thì trời đã tối.
Cụ Ba Phướn mời quan ở lại qua đêm và tiếp đón hết sức chu đáo. Sau khi đã “cơm no rượu say”, quan huyện và lính lệ đã ngủ thì cụ Tổng Ba mới sai tuần định đốt một đống lửa ở phía trước mặt để lấy đó làm chuẩn mà cắm các cọc mốc. Đoạn đê mới dài hơn 1km, chạy thẳng từ đất phía Bắc làng Kim Lan (cống Bắc-Hưng-Hải) đến đường cụ Quýnh (dốc đường 179 ngày nay), phân đất làng Xuân Quan ra làm hai, ngoài bãi và trong đồng.
Chính do làng Kim Lan nằm ở vùng đất cựu phía trong đê nên xã Kim Lan mới thuộc tổng Đông Dư gồm các làng cổ. Điều này còn được chứng minh đất làng Kim Lan, ở độ sâu 3m trở xuống, được hình thành từ xa xưa là loại đất thịt (còn gọi là đất sỏi ruồi), có những hòn tựa như những sỏi nhỏ, nhân vàng rất rắn, người xưa dùng làm men gốm. Sau khi không còn đê, hằng năm đất Kim Lan bị ngập trong nước lũ hai ba tháng. Mặt ruộng được phù sa bồi trúc và theo thời gian, đất làng cao dần.
Theo tổng kết của Tiến sỹ Ngô Thế Phong, Viện Khảo cổ học Việt Nam thì trong khoảng 200 năm trở lại đây, đất Kim Lan cao thêm 2m, rất tiện cho việc gieo trồng hoa màu như ngô, khoai, rau, đậu.
Cùng với tên chữ là Kim Lan (bông hoa lan vàng), trong nhiều thế kỷ trước, người dân trong vùng chỉ gọi nôm na Kim Lan là làng Sươn. Các triều Trần-Lê, tên Nôm ngắn gọn được sử dụng phổ biến trong giao tiếp, chỉ có chiếu chỉ của triều đình; các văn tự bán mua trong dân, người ta mới sử dụng tên chữ của làng.
Về tên Nôm của làng Kim Lan, trước đây đã có nhiều người tìm hiểu và giải nghĩa, nhưng đến nay vẫn chưa tìm được cách giải thích có sức thuyết phục. Gần đây, ông Nguyễn Việt Hồng, người làng Kim Lan, là người am hiểu chữ Hán, có nếu chữ Sươn là do đọc chệch chữ “Xương” mà thành. Theo ông, trên quả chuông hiện treo tại gác chuông chùa Cả (tên chữ Linh Ứng tự), đúc năm 1797, thân chuông khắc bài minh có bốn chữ “khánh lưu xương ấp”.
Tự điển Hán Việt của cư sĩ Thiều Chửu, nêu các chữ Xương, trong đó có chữ “Xương hạp”. Chữ xương (1) gồm có bộ môn, bên trong có chữ xương nghĩa là thịnh. Chữ xương này có nghĩa là: “Cửa trời, cửa chính trong cung”. Có thể coi đây chỉ là một cách giải thích chữ “Sươn” mà thôi.
Kim Lan - nơi sản xuất đa dạng các loại gốm sứ
Ngay từ tên gọi “ Làng gốm cổ Kim Lan” chắc hẳn cũng đã phần nào hiểu được làng xã này tập trung trong việc sản xuất gì. Nếu bạn biết đến Bát Tràng là nơi sản xuất những sản phẩm gốm thủ công mỹ mang tính nghệ thuật cao, thì nay đến với Kim Lan nơi được mệnh danh là lò gốm gia dụng. Bắt đầu với những hỗn hợp đất sét, men hồ,... dưới bàn tay tài ba của những người dân Kim Lan đã cho ra những thành phẩm vô cùng cao cấp và có nhiều tính ứng dụng cao.
Làng gốm Kim Lan ngày nay có rất nhiều sản phẩm gốm sứ đa dạng được chia thành những nhóm chính sau:
Gốm sứ xây dựng: đây là những sản phẩm phục vụ cho công trình xây dựng như nhà, chùa,... với các mặt hàng là: gạch lợp nhà, ô thoáng,...
Gốm sứ gia dụng: nhóm sản phẩm này tiêu biểu kể đến là , bát, bát hương, chậu trồng cây, bình hoa, … hay những đồ gốm sứ liên quan đến an táng như quách tiểu.
Nhìn chung các mặt hàng tại làng gốm xã Kim Lan nhiều vô kể, có thể nói rằng khi bạn muốn tìm bất kỳ món đồ gốm nào thì nơi đây cũng có thể đáp ứng. Đặc trưng của mặt hàng nơi đây là không quá cầu kỳ về kiểu cách, thiết kế mà tập trung vào độ bền và tính ứng dụng với giá thành hợp lý. Vì vậy, khi đến với làng gốm cổ này sẽ có những nét riêng trong quy trình sản xuất cũng như thành phẩm.
Các hộ sản xuất gốm tại Kim Lan đều có nhiều hình thức kinh doanh từ bán buôn, cung cấp hàng theo hợp đồng hay bán lẻ. Mức giá của gốm sứ Kim Lan rất rẻ so với giá mặt bằng của thị trường gốm nói chung. Đi đôi với đó là chất lượng cao, uy tín và trách nhiệm trong từng sản phẩm được mang đến khách hàng.
Làng gốm Kim Lan nơi có những trải nghiệm mới
Với toàn bộ những thông tin trên có lẽ rằng câu hỏi “Làng gốm cổ Kim Lan ở đâu ? Sản xuất những loại sản phẩm nào?” sẽ không còn bất kỳ thắc mắc nào nữa. Nếu có dịp ghé thăm đến với làng gốm nơi đây, bạn không chỉ được biết thêm về làng nghề gốm, gặp các nghệ nhân nổi tiếng. Đặc biệt hơn, bạn cũng sẽ được trải nghiệm thực tế với các quy trình sản xuất gốm. Người dân nơi đây rất thân thiện với lòng hiếu khách và tận tâm hết mình. Mình hy vọng đến với Kim Lan bạn sẽ có một chuyến đi thật ý nghĩa.
Hozzászólások